↑ Đức Thuận quân thời Bắc Tống có trị sở nay là đông bắc Long Đức, Ninh Hạ, nhà Kim đổi làm Đức Thuận châu, có trị sở nay là phía đông Tĩnh Ninh, Cam Túc
↑ Tống sử, tlđd cho biết Kỹ là con trai thứ 9 của Lưu Trọng Vũ. Theo Tống sử – Lưu Trọng Vũ truyện, Tống Huy Tông úy lạo Trọng Vũ, hỏi Trọng Vũ có bao nhiêu con trai, Trọng Vũ đáp là 9 người. Ngoài ra, Lưu Trọng Vũ truyện còn cho biết Lưu Trọng Vũ là người Thành Kỷ, Tần Châu (nay là Thiên Thủy, Cam Túc). Tần Châu và Đức Thuận quân là 2 địa phương láng giềng thuộc khu vực mà nhà Bắc Tống gọi là Tần Phượng lộ, nhà Kim đổi là Phượng Tường lộ
↑ Đái ngự khí giới là võ quan đời Tống, tức quan viên được đeo kiếm, mang cung vào nội cung hầu hạ hoàng đế, nhưng ở đây Lưu Kỹ chỉ được nhận quan hàm mang tính vinh dự. Đái ngự khí giới chính là nguyên mẫu của quan chức mà các tiểu thuyết dã sử gọi là Ngự tiền đái đao hộ vệ
↑ Tống sử chép là “Soái Hợp Phì”, Tục tư trị thông giám chép là “Hoài Nam tây lộ Chế trí phó sứ, Lư Châu trí tư” (phủ lỵ của Lư Châu là Hợp Phì)
↑ Tống sử chép là “thú Kinh Khẩu”, Tục tư trị thông giám chép là “dĩ sở bộ đồn Trấn Giang phủ” (vị trí trọng yếu nhất của Trấn Giang là Kinh Khẩu, đến đời Thanh, trong thủy sư Trường Giang vẫn còn chức vụ Kinh Khẩu phó đô thống)
↑ Tống sử chép là “Soái Kinh Nam phủ”, Tục tư trị thông giám không nhắc đến Đàm Châu, nhưng chức vụ của Lưu Kỹ được chép là “Tri Kinh Nam phủ, Tiết chế đồn trú ngự tiền quân mã”. Bấy giờ phủ Kinh Nam không có quân đội, nên “Tiết chế đồn trú ngự tiền quân mã” chẳng khác gì hàm rỗng
↑ Kinh, Hành tức Kinh Sơn (荆山) và Hành Sơn (衡山), là tên gọi phiếm chỉ khu vực bao gồm lưu vực Trường Giang về phía nam
↑ Tống sử chép “ngộ đại lễ”, Tục tư trị thông giám cho biết sự kiện này xảy ra vào tháng giêng ÂL năm Thiệu Hưng thứ 30
↑ Tống sử cho biết nhân dịp này triều đình cho Lưu Tỷ làm Giang Đông lộ Binh mã phó đô giám, nhưng Tục tư trị thông giám cho biết chức vụ của Lưu Tỷ đã là Kinh Hồ bắc lộ binh mã đô giám
↑ Thanh Hà Khẩu (清河口), đời Nam Bắc triều quen gọi là Thanh Khẩu, nay là phía tây Hoài Âm, Giang Tô. Trong chiến tranh Kim – Nam Tống, nơi này có vị trí cực kỳ quan trọng ở thượng du du sông Hoài, thường xuyên có trọng binh ở đôi bên đóng giữ
↑ Tống sử chép là Triệu Bá trấn, Tục tư trị thông giám chép là Thiệu Bá đại (đập). Triệu (邵) hay Thiệu (召) là tên của một nước chư hầu đời Xuân Thu, xem bài Triệu công Thích. Đập Thiệu Bá (hay Triệu Bá) do danh thần nhà Đông Tấn là Tạ An xây dựng vào năm 385, tồn tại 630 năm thì bị dẹp bỏ. Ngày nay đập vẫn còn di chỉ là hồ Thiệu Bá, thuộc trấn Thiệu Bá, huyện cấp thị Giang Đô, Giang Tô
↑ Nay là trấn Qua Châu, khu Hàn Giang, Giang Tô. Qua Châu là cù lao ở ven Trường Giang (chữ châu có bộ thủy, 洲)